Thánh
PHANXICÔ XAVIER CẦN
(bị bắt 20-4-1836, xử
giảo 20-11-1837 tại Hà Nội)
Trích Từ Dòng Máu Anh Hùng Tập
I-III của Lm Vũ Thành
Trổi trang nhất và đứng
đầu sổ trong các thầy
giảng là Thầy Phanxicô Xavier
Cần, chết vì đạo
lúc mới 34 tuổi. Đức
Cha Havard đã khen ngợi lòng
dũng cảm của thầy
như sau: "Ai có thể tin
được một người
như các con, không những đã
tỏ ra can trường và nhân
đức trổi trang hơn
người mà còn đối đáp
cho những người tra khảo
không hỏi được nữa.
Người đó đã làm vinh
danh Thiên Chúa khi phải đi trước
giao chiến một mình và đã
để lại gương
mẫu cho bao nhiêu người
khác".
Thánh Cần sinh tại Sơn
Miêng, phủ Ưng Hòa, tỉnh
Hà Nội năm 1803. Cha ngài tên
là Hới có 5 người con,
chú Cần là thứ 2. Gia đình
không giầu nhưng có lòng đạo
đức. Ngay từ nhỏ
chú Cần đã muốn dâng mình
cho Chúa nhưng mẹ cậu vì
thương con không muốn cho
đi. Chú Cần đã phải
dọa rằng: "Nếu mẹ
không cho con đi ở với
cụ xứ thì con sẽ trốn
đi ở với cha khác".
Không biết chắc chú Cần
đã ở với cha nào vì các
chứng nhân, người thì nói
ngài ở với Cha Báu, người
khác lại nói ở với Cha
Duyệt, có sách lại chép ngài
ở với Cha Nghị. Y sĩ
Giacôbê Vũ Văn Thịnh đã
cùng học với thầy Cần
ở Kẻ Vĩnh làm chứng
rằng: "Thầy Cần rất
chăm chú làm tròn bổn phận
và có cách sống gương mẫu
không trách cứ được
điểm nào. Thầy rất
thông minh, học đứng đầu
lớp. Mãn trường Latinh
Thầy Cần được
làm kẻ giảng về giúp Cha
Duyệt mấy tháng rồi được
lệnh giúp Cha Retord (sau làm Giám
Mục), từ năm 1832."
Ngày 20-4-1836 Thầy Cần bị
bắt tại Kẻ Vác.
Diễn tiến sự việc
thầy bị bắt được
chính Cha Retord và bà Matha Sơ thuật
lại như sau: Hôm 19-4, thầy
được sai đến
làng Kẻ Chuông để hỏi
ông trùm tại đây có sẵn
sàng đón cha về làm phúc cho
họ không. Khi biết được
là cả họ sẵn sàng, Thầy
Cần theo lệnh của Cha
Retord đến làng Kẻ Vác
để xin Cha Tuần đến
làm phúc cho họ Kẻ Chuông. Khi
tới họ Kẻ Vác thì lúc
ấy đang có cuộc lùng bắt
Cha Tuần, nhưng cha đã trốn
được. Người đi
lùng bắt là cai tổng Hào Tít
đang tức giận thì gặp
Thầy Cần đi tới,
ông cai liền chận thầy
lại hỏi:
- "Đi đâu mà không trình?"
- "Tôi đi qua đường".
- "Có quen ai ở đây không?"
- "Tôi quen Lý Quang".
Cai tổng ra lệnh bắt trói
Thầy Cần và đánh đập
năm sáu roi rồi bắt thầy
phải nhận các đồ
đạo là của mình. Nguyên
Lý Quang là người Công Giáo đã
xin quan lớn được
tách riêng làng Công Giáo không phải
nộp tiền cho các vụ cúng
tế dị đoan, và vì vậy
bị cai tổng ghét. Ngày hôm sau
Thầy Cần bị dẫn
giải lên quan huyện Thanh Oai
cùng với Lý Quang.
Tại huyện, Thầy Cần
bị tra tấn ba kỳ, cách
nhau ba ngày. Lần thứ nhất
quan huyện hỏi tên tuổi
và quê quán. Thầy xưng tên là
Cần, nhưng quan viên trong làng
sợ phải nộp thêm thuế
vì tên mới nên khai tên sổ bộ
là Nguyễn Tiến Truật.
Về việc bị bắt,
Thầy Cần cứ đúng
sự thật khai: "Tôi vừa
ở ngoài đồng vắng
vào đến làng, chứ chưa
vào nhà Lý Quang thì đã bị bắt,
còn đồ đạo thì chính
cai tổng Hào đã bỏ vào".
Còn tổng Hào nhất mực
nói rằng bắt được
Thầy Cần ở nhà Lý Quang.
Thầy Cần bị đánh
40 roi, vừa đánh quan vừa
dụ dỗ chối đạo
để được tha về
với mẹ già. Thầy Cần
thưa: "Không được,
tôi thờ kính một Chúa Trời
dựng nên tôi làm sao tôi dám đạp
dưới chân. Nếu quan tha
thì tôi sống mà nếu quan bắt
tội thì tôi sẵn lòng chịu
chết".
Thầy Cần cũng quay sang
tổng Hào nói: "Ông cứ việc
tố cáo mọi tội ông muốn,
tôi sẵn lòng chịu để
đền vì tội riêng của
tôi".
Thầy Cần bị căng
giữa các cọc và bị tra
tấn trong hai tiếng đồng
hồ.
Lần thứ hai, cách đó hai
ba ngày, Thầy Cần ngậm
thuốc lào trong miệng để
giảm cơn đau, và để
mặc quan muốn đánh thế
nào thì mặc sức chứ không
muốn trả lời thêm. Quan
bắt nhận các đồ đạo
nhưng thầy chối ngay. Quan
cho nọc thầy ra như lần
trước và đánh 40 roi. Thấy
nước bọt sùi lên ở
mép thì quan sợ ra lệnh thôi.
Hôm ấy nhà quan có đám giỗ
nên Thầy Cần được
quan cho ăn cơm tại nhà.
Trước khi ăn, Thầy
Cần làm dấu đọc kinh
to tiếng. Thấy vậy quan
hỏi thầy làm dấu gì vậy?
Thầy Cần liền cắt
nghĩa: "Khi dùng bữa chúng
tôi làm dấu thánh giá đọc
kinh, có ý tạ ơn Thiên Chúa đã
tạo dựng nên của ăn
và đã ban cho chúng ta".
Khi dùng bữa xong Thầy Cần
cũng làm dấu và đọc
kinh, quan liền hỏi thầy
làm dấu gì nữa vậy? Thầy
Cần cũng đáp: "Ăn
cơm xong chúng tôi tạ ơn
Chúa vì đã được ăn
uống nuôi xác cho sống và được
thờ phượng Đức
Chúa Trời".
Quan huyện khen: "Làm thế
rất phải. Hãy đọc
thêm các kinh khác trong đạo
nữa đi." Thầy Cần
đọc kinh 10 điều răn
Đức Chúa Trời, sáu điều
răn Hội Thánh và lần hạt.
Đọc đến kinh nào thì
thầy cắt nghĩa rõ ràng
kinh ấy. Quan khen: "Như
ông vừa cắt nghĩa, những
điều này rất tốt
và phù hợp với lẽ phải.
Nhưng ta vẫn nghe trong đạo
có nhiều điều trái lẽ
khác. Ta nghe nói các linh mục thường
móc mắt đàn bà ốm yếu
bỏ vào chum nước có chó
ngao rồi lấy nước
làm bùa mê rảy trên dân chúng".
Thầy Cần cực lực
phản đối: "Đó
là một điều bịa đặt
vu khống hoàn toàn. Các đạo
trưởng rất thành thực
và không bao giờ nói dối".
Sau đó thầy Cần được
đem về nhà giam. Còn lần
thứ ba quan huyện cũng
ép buộc thầy nhận các
đồ đạo và đạp
ảnh nhưng thầy mạnh
mẽ từ chối. Quan nói:
- "Ông là người khôn ngoan,
lý sự, tôi rất thương
ông. Sao không chịu bước
quan ảnh đi. Nếu không
thì cứ nhận là đã làm,
để tôi viết vào tờ
bá cáo trình lên vua là ông đã bước
qua ảnh và ông sẽ được
tự do".
- "Nếu quan muốn viết
về kinh rằng tôi đã chối
đạo thì chính tôi sẽ về
kinh để phản đối,
và nói rõ rằng chính quan đã
khiêng tôi qua thánh giá chứ tôi không
bao giờ ưng chịu như
vậy. Vua mà các ông phục vụ
cũng chỉ là một người
hay chết, thế mà các ông không
dám đạp hình vua dưới
chân, không dám nói một lời
thất lễ. Vậy tại
sao các ông lại muốn tôi chối
bỏ Thiên Chúa tôi thờ. Chính
Ngài là Chúa trời đất,
là Vua các vua. Chính Ngài ban cho chúng
ta hằng ngày muôn vàn ơn lành.
Tôi không bao giờ dám tỏ ra
vô ơn với Ngài..."
Quan ra lệnh căng thân thể
thầy dưới đất
và đánh đòn. Sau khi đã đánh
đủ 40 roi, quan truyền
cho lính khiêng thầy qua ảnh.
Thầy co chân nói to lên: "Không
bao giờ tôi chiều theo".
Quan giận nói với thầy:
"Ta đã làm hết sức
để gỡ tội cho ông
mà ông chẳng nghe, ta đặt
tên cho ông là ông Lì".
Quan truyền đem thầy về
nhà giam. Nhà giam tại huyện
rất đồi tệ, bẩn
thỉu. Thầy Cần vừa
bị khổ cực thể xác,
vừa phải trải qua những
lời phỉ báng dụ dỗ.
Khi quan dụ dỗ thầy đạp
ảnh, những người
bên lương ở làng Sơn
Miêng có mặt cũng ùa vào nói:
"Nếu vua có bắt chúng tôi
đạp trên đầu các bụt
thần, các sư sãi chúng tôi sẽ
làm ngay. Còn ông chẳng có lẽ
gì mà sợ khi quan bảo bước
qua tượng ảnh bằng
đồng bằng sắt. Thôi
hãy làm đi rồi nếu có tội
thì đi xưng tội".
Một số giáo dân kém lòng đạo
cũng đến dụ dỗ:
"Không có tội nào nặng
đến nỗi Chúa không tha
thứ. Thánh Phêrô cũng đã
chối Chúa ba lần mà vẫn
còn làm đầu giáo hộị
Bao nhiêu vị Thánh cũng vậy,
thầy đã biết. Thầy
hãy bước qua ảnh đi
để cả làng khỏi phải
oan lây vì thầy".
Có người còn táo bạo nói
dối thầy là Cố Liêu (Cha
Retord) có nhắn thầy cứ
bước qua ảnh đi rồi
về nhà sẽ hay. Thầy Cần
đã sáng suốt trả lời:
"Tôi không có làm hại người
nào. Nếu giữa quan và dân có
điều gay go là việc của
họ. Làm sao tôi có thể xúc phạm
đến Chúa để giải
thoát làng xã được? Nếu
có thiên thần đến bảo
tôi rằng Chúa truyền cho tôi
đạp ảnh, tôi sẽ coi
khinh ngay và chẳng nghe lời,
phương chi là Cố Liêu, nếu
ngài có nhắn như các ông nói,
tôi cũng chẳng làm theo lệnh
ấy. Nhưng tôi biết chắc
là cha không có nói như vậy".
Cha Retord rất băn khoăn
và lo lắng cho Thầy Cần.
Sau cùng cha quyết định
làm mọi cách để chuộc
thầy ra. Cha giao cho mẹ thầy
Cần 300 lạng bạc để
đút lót cho quan. Bà khúm núm lạy
lục quan, quan nhận tiền
rồi lại đòi thêm 100, rồi
200 nữa. Cha còn cậy nhờ
quan tỉnh Hưng Yên nói giúp.
Nhưng vì tổng Hào có người
dì là vợ lẽ của quan án
trên tỉnh nên không dễ gì thu
xếp. Quan lớn trên tỉnh
bắt quan huyện phải làm
án. Quan huyện làm án tới 4
lần mà không xong. Quan đã làm
án cho Thầy Cần phải tạp
dịch một năm rưỡi,
nhưng quan án cũng muốn
đem nội vụ lên tòa tỉnh
và ra lệnh cho quan huyện giải
tội nhân lên. Thầy bị
giam giữ 8 tháng ở huyện
Thanh Oai, còn Lý Quang sau khi đã
tốn nhiều tiền lo lót
cho quan thì đã được
về. Trong thời gian bị
giam, mỗi tuần có người
em lên thăm và trả tiền
ăn uống. Có lần bà mẹ
thầy đến thăm và dụ
dỗ thầy làm theo lối chữa
tội của quan để được
về. Thầy đã từ chối
mạnh mẽ và bảo với
lính canh từ nay đừng để
mẹ ngài tới nữa. Thầy
cũng nói với cô em đừng
lui tới thường xuyên, hãy
ở nhà làm ăn, đừng
buồn chi đến việc
thầy bị bắt. Cũng
có 4 vị bô lão xứ Sơn Miêng
đến để theo dõi nội
vụ, có lần đã thuật
lại lời Thầy Cần
bảo họ: "Các ông vất
vả chạy với quan lo cho
tôi nhưng thật vô ích và sẽ
uổng mất nhiều tiền.
Thời buổi này vua bắt
đạo dữ tợn, tôi không
thể ra khỏi tù nếu không
đạp thánh giá. Điều
đó tôi sẽ không bao giờ
làm".
Thấy Cha Retord lo lắng, thầy
cũng nhắn một người
Công Giáo trình lại đừng
lo cho thầy phải khổ,
nhưng hãy an tâm.
Sau 8 tháng ở tù tại huyện
Thanh Oai trong khi có những cuộc
dàn xếp, Thầy Cần phải
giải lên tỉnh Hà Nội,
vào khoảng tháng 12. Vừa lên
tới tỉnh, quan án đã ép
buộc Thầy Cần quá khoá.
Nhưng thầy mạnh bạo
thưa: "Nếu muốn quá
khoá để được
tự do, tôi đã không đợi
đến bây giờ. Vì tôi không
bao giờ chịu nên mới bị
giải về đây cho quan".
Tới tháng ba quan mới cho gọi
ra tòa và ép buộc thầy bước
qua thánh giá. Không được
như ý, quan cho lính cầm hai
đầu gông khiêng thầy qua.
Thầy nói lớn tiếng: "Lính
của quan lớn mạnh sức,
khiêng voi cũng được
phương chi khiêng tôi. Tôi nhất
quyết không chối đạo.
Các quan đừng lừa dối
thiên hạ về tôi".
Khi lính khiêng qua thì thầy cố
hết sức co chân lên phản
đối: "Tôi không bao giờ
dám bước qua cũng chẳng
dám đụng chân tôi vào thánh giá
Chúa".
Sau đó các quan làm án tâu về
kinh luận tội thầy phải
xử giảo. Trong khi chờ
đợi lời phê của vua,
quan tỉnh hỏi han, ôn tồn
dụ dỗ. Quan bảo: "Thôi
ông hãy nhắm mắt lại mà
bước qua thì chẳng có tội
chi vì chẳng biết cũng
chẳng tự ý".
Thầy đáp lại: "Tôi
có thể nhắm mắt được
nhưng không thể che linh hồn,
trái tim tôi và tôi vẫn phạm
tội như thường. Bởi
vậy tôi không bao giờ làm như
quan bảo".
Lần khác quan lấy hai thanh
tre buộc lại làm chữ thập
rồi nói: "Ông xem, đây không
có hình ảnh Chúa gì cả, đây
chỉ là chữ thập, ông hãy
bước qua đi rồi mọi
sự xong xuôi cả".
Thầy Cần đáp: "Cái
hình này là chữ thập chỉ
bởi miệng quan nói ra mà thôi,
trong tâm tư quan vẫn coi đó
là hình thánh giá. Cũng vậy nếu
quan bắt tôi bước qua một
cọng rơm mà nói là hình thánh
giá thì tôi cũng không bao giờ
nghe lời. Tôi càng không có lý nào
bước qua hình chữ thập".
Tại tỉnh Hà Nội, Cha Retord
còn vận động hai lần
để quan trả tự do
cho Thầy Cần. Lần thứ
nhất cha nhờ một người
thợ mộc làm một hộp
chè rất xinh đem biếu quan
tỉnh. Quan rất hài lòng muốn
làm một cái để dâng vua.
Ông thợ mộc mới nói là
Thầy Cần là người
bà con cũng làm thợ mộc.
Quan tỉnh liền nói: "Hãy
cho người này về nhà. Hắn
không phải là trộm cướp
hay nghịch tặc. Nếu các
quan muốn giết những người
không đạp ảnh thì cả
nước này sẽ trở thành
một lò sát sinh khổng lồ".
Nhưng quan án đã vội vàng
làm một bản án theo đúng
pháp luật nhà nước. Cha
Retord còn xin Đức Cha Havard
những lạng bạc cuối
cùng để nhờ một quan
ở Nam Định là bạn
với quan tỉnh Hà Nội can
thiệp, nhưng quan cho biết
là bản án của Thầy Cần
không thể sửa chữa gì
được nữa. Bản
tội trạng quan viết như
sau: "Tất cả các quan đã
nhiều lần và nhiều cách
cố làm cho tù nhân bước
qua ảnh, song hắn khăng
khăng từ chối. Hẳn
thật hắn đã bị mê
hoặc bởi thứ tà đạo...
Mặc dù hắn nhìn nhận những
đồ đạo bắt được
là đúng những đồ thờ
của đạo Gia Tô, nhưng
hắn vẫn không chịu nhận
là của hắn. Hắn kể
ra những nhân chứng để
chạy tội song các nhân chứng
đều chạy trốn hết.
Mặc dù có thể bắt lại
những người làm chứng,
nhưng các chứng ấy có giá
trị gì? Theo luật pháp việc
cấm giảng đạo mới
thì đã rõ ràng, không cần thêm
chi tiết nào nữa. Luật
ấy viết: 'Chúng cất giấu
các đồ thờ phượng,
chúng đốt hương, hội
họp ban đêm và chỉ giải
tán lúc rạng đông. Chúng giả
bộ làm điều lành để
lừa dối lòng người.
Các đạo trưởng phải
bắt bỏ tù để chờ
hình phạt xử giảo, còn
tín đồ thì phải đánh
100 roi và phát lưu suốt đời
xa 300 dặm'. Vậy áp dụng
luật nói trên chúng tôi xét rằng
hắn là đạo trưởng
chứ không phải là một
tín đồ thường của
đạo bị nghiêm cấm.
Vì thế chúng tôi luận rằng
hắn phải xử tử".
Từ khi các quan làm bản án sau
cùng đến lúc hành quyết,
Thầy Cần trải qua một
cơn bệnh, nhưng lại
được một linh mục
Việt đến an ủi và
cha đỡ đầu Retord
gửi hai lá thư khích lệ,
sửa soạn cho thầy ra chiến
trường. Nhờ bí tích giao
hòa và thánh thể, Thầy Cần
lấy lại được
sức khỏe thể xác và tinh
thần. Trong cuộc đàm đạo,
Thầy Cần và linh mục Việt
Nam đã cố ý nói to tiếng
về những lẽ đạo
và những giả dối của
thần phật, với mục
đích để cho lính canh và
các bạn tù nghe, rất có thể
ơn Chúa cũng đánh động
tâm hồn họ. Quả thực,
một người trong bọn
họ đã nói: "Nếu người
trẻ này được trở
về quê hương, tôi chỉ
ước mong mang áo dài đến
phủ phục lạy 100 lạy
trước mặt ông".
Ông quan cai ngục cũng nói: "Ông
ta cũng chỉ lớn bằng
tôi nhưng đã có một trái
tim bất khuất. Sau khi chết
rồi chắc chắn ông ta sẽ
làm thần và trở thành vị
thần bảo vệ làng".
Trong thơ thứ nhất Cha
Retord gửi cho thầy, có chứa
đựng những lời cao
đẹp của hiền nhân
về một cái chết oai hùng.
Cha viết: "Thánh ý Chúa nhiệm
mầu. Có ai tin được
rằng khi sai con đi lo việc
đạo thì cha đã sai con đi
đến chỗ chết. Ai
tin được rằng khi
con vui vẻ lên đường
một chốc nhưng rồi
đã bỏ cha ở lại mà
không trở về nữa. Cha
nghe biết các quan đã ra án tử
cho con. Tin này làm cha đau buồn
tê tái nhưng cũng tràn ngập
một niềm vui khôn tả....
Nỗi khổ cực của
con, gông cùm của con còn đè
nặng trên cha hơn là chính con.
Từ khi con vào trong nhà tù, cha cũng
bước theo vào đó và cha
rùng mình ghê sợ.... Nhưng đức
tin an ủi cha trước những
khốn khó của con. Thật
vậy, các quan đã làm vinh dự
con khi kết án con như là một
linh mục. Sợi giây thừng
và luật lệ khép án giảo
vào cổ là dành cho những người
có chức linh mục mà thôi. Hỡi
con, hãy can đảm. Con đã
tạo nên một quang cảnh
làm các thiên thần phải thán
phục và con người được
hãnh diện. Tên con sẽ vượt
xa trùng dương, danh tiếng
con sẽ còn tồn tại trong
khi những người bách hại
con rơi vào mồ sâu quên lãng.
Con hãy nhớ lại lời chép
trong sách Mạnh Tử: 'Người
ta yêu thích xác con gấu, người
ta cũng thích xác con cá, nhưng
nếu phải chọn một
trong hai thì người ta phải
bỏ đi xác con cá mà chọn
lấy xác gấu. Người
ta vừa thích sự công chính và
vừa thích sống nữa, nhưng
khi phải chọn thì người
ta bỏ sống mà lấy sự
công chính'. Đấy con xem, lời
hiền nhân ngoại giáo rất
đẹp sẽ được
người Kitô đem ra thực
hành. Hãy ôm ấp gông cùm với
sức can đảm và lòng mến
như Maria và Madalena ôm thánh giá
của Chúa Cứu Thế. Một
ngày kia các gông cùm sẽ trở
thành hào quang chiếu sáng, hãy đặt
chân con vào cùm với lòng sung sướng
nghĩ rằng các quan đặt
hoa hồng vào chân con, hãy nghĩ
rằng đó là những bực
thang đưa con lên trời,
hãy khoác vào người màn tối
tăm của ngục tù với
niềm vui mơ tưởng
đến tiền đường
lâu đài tráng lệ thiên quốc....
Trong sách Thánh còn chép rằng: 'Những
cơn gió lớn làm các ngọn
cỏ mạnh thêm mà không nhổ
được'. Cũng vậy
cơn bách hại lung lay con là
một cuồng phong. Con hãy là
ngọn cỏ vững mạnh,
không chịu để bật
rễ, đừng tiếc nuối
những khoảnh khắc vắn
vỏi của cuộc sống
khổ sở này. Tiên tri Hôsê (Hosea)
đã ví cuộc sống này tan
biến như mây buổi sáng
như hạt sương đêm
và như khói của lò bếp.
Con hãy phó thác linh hồn trong tay
Chúa, chỉ mong ước được
hiệp nhất với Ngài trên
trời. Cha không bao giờ quên
cầu nguyện cho con. Trước
đây cha coi con như người
cộng tác nhưng bây giờ
con thực sự là bạn chí
thiết".
Thầy Cần viết thư
lại cho Cha Retord tỏ lòng con
hiếu thảo cảm động
vì lòng yêu thương săn sóc
và tràn ngập an ủi được
nhận lá thư duy nhất trong
tù. Thầy Cần kể lại
ngày 22 tuần trăng thứ
tư, khi họ cột xích vào
chân thầy thì khu phố bị
phát hỏa, thiêu rụi 1330 căn
nhà. Các quan tin rằng vì bắt
bớ người Công Giáo mà Trời
giáng họa. Thầy còn thuật
lại lời một cai tổng
cũng bị tù nói rằng, nếu
được ra khỏi tù sẽ
tin đạo và làm tất cả
những gì đạo truyền.
Thầy Cần cũng dùng những
hình ảnh đơn sơ để
diễn tả tâm tình cao cả.
Thầy viết: "Người
đời cũng giống như
những con nhện rút ruột
làm thành mạng lưới để
bắt những con ruồi khốn
nạn. Phần con, con lại
muốn bắt chước con
tằm cũng rút ruột nhưng
lại nhả tơ xây dựng
một tổ ấm để
chết và tái sinh thành những
con bướm rực rỡ đền
đáp công ơn đã được
nuôi dưỡng".
Chính Thầy Cần đã thuật
lại cho người bạn
học cũ đến thăm
về điềm báo ngày tử
đạo. Hôm ấy vì thầy
đem cho hết các lương
thực, nên người bạn
mới vặn hỏi tại
sao. Thầy thú thực: "Đêm
qua có một thiên thần hiện
ra với tôi, rất sáng láng và
bảo tôi chỉ giữ lại
một số gạo đủ
cho đến ngày xử. Vì thế
tôi mang gạo cho các anh em bạn
tù vì tôi sẽ chết vào ngày mà
thiên thần đã báo".
Lời phê của vua vào bản
án đến tỉnh Hà Nội
ngày 20-11-1837. Quan Thượng
còn truyền quan giám sát đến
ngục ép buộc thầy quá
khóa để được
vua khoan hồng. Thầy Cần
ngỏ lời cám ơn các quan
và xin các quan cứ lệnh vua
mà thi hành. Khi bị điệu
ra trước mặt quan án trước
khi đến pháp trường,
quan án lại ép thầy chối
đạo để viết
tờ trình xin ơn xá. Thầy
Cần quả quyết: "Nếu
tôi muốn chối đạo
thì tôi đã làm từ trước
rồi chứ không để
phải giam tù lâu như thế
này".
Quan án lại đem thầy ra
trình diện quan Thượng.
Quan lớn vỗ về: "Ngươi
còn trẻ, hãy chối đạo
đi ta sẽ giúp cho".
Thầy Cần khẳng khái từ
chối không làm theo ý quan. Quan lại
nói: "Nếu ngươi sợ
hình ảnh này thì nhắm mắt
lại mà bước qua, nếu
có tội sau đó sẽ xưng".
- "Tôi chết như thế
này là vì tôi trung thành với đạo
lý tôi theo. Ai cũng phải chết
cả, người thì chết
bệnh, người khác vì trộm
cướp hay tham lam".
Không khuyến dụ được
thầy, quan giám sát được
lệnh cỡi voi dẫn lính
điệu Thầy Cần ra
ngoài pháp trường. Thấy
đám đông theo sau than khóc, thầy
nói với họ: "Đừng
than khóc về cái chết của
tôi, nhưng hãy vui với tôi vì
tôi được đến
gần Chúa tôi. Đừng than
trách những người đã
bắt tôi, vì qua bàn tay họ mà
tôi được ơn cao cả
này".
Người bên lương nói
với nhau: "Ông này có gan thánh
gan thần, mới có bấy nhiêu
tuổi mà đã khôn ngoan quả
quyết, thì phải biết đạo
này là đạo thật".
Thầy còn nói với họ: "Không
phải vì trộm cắp cướp
của mà tôi phải chết,
nhưng chỉ vì lòng trung thành
với đạo của Đức
Chúa Trời".
Tới nơi xử là Ô Cầu
Giấy, các lính làm thành một
vòng tròn, còn Thầy Cần ngồi
trên một tấm chiếu trải
sẵn ở giữa. Theo tục
lệ, lính mang thức ăn ra
cho thầy, nhưng thầy từ
chối xin được ít phút
cầu nguyện. Sau đó lính
cột thầy vào một cọc.
Thầy Cần thấy có nhiều
bổn đạo đứng
đấy thì nói với họ:
"Tôi xin cám ơn anh em của
tôi. Anh em còn ở lại dưới
thế này, phần tôi, tôi ra trước
tòa Chúa".
Sau đó lý hình kéo giây thật
mạnh. Quan thấy có điều
lạ nói với lý hình: "Tại
sao những người khác khi
bị thắt cổ thì nhắm
mắt lại ngay và thè lưỡi
ra, sao ông này vẫn cứ mở
mắt? Hay là đạo của
họ có phép làm cho sống lại?
Hãy chặt cổ cho chắc ăn".
Sau đó quan quân rút lui, ông Binh,
ông Nhật, y sĩ Thanh và bà Đức
liền mang xác Thầy Cần
về chôn tại Chân Sơn. Vài
năm sau được đem
về chôn tại quê là Sơn
Miêng.
Cha Retord có lòng tôn kính ngài đặc
biệt. Cha viết: "Tôi thường
đi bách bộ tại vườn
nơi chôn cất xác thánh nhân.
Tôi vui thích nghe những lời
cầu khẩn của giáo dân
trên mộ người thầy
giảng yêu quí của tôi. Tôi cảm
thấy hãnh diện đã đào
tạo con người trẻ
ấy. Tôi vui sướng nhớ
lại khi trước người
anh hùng tử đạo vẫn
gọi tôi bằng cha. Nhưng
bây giờ trên trời, ngài là đấng
bầu cử cho tôi. Chính tôi, mỗi
ngày tôi quì gối trên phiến
đá mộ ngài và cầu xin chóng
mang tôi đến gần cùng với
các bổn đạo tôi coi sóc".
Ít lâu sau Cha Retord đã cho đưa
một phần hài cốt Thầy
Cần về Đại Chủng
Viện ở Lyon, Tòa Giám Mục
và nhà xứ Thánh Georges. Cha Retord
làm chứng rằng 11 năm sau
cái chết của Thầy Cần,
một trong các vị quan xét xử
Thầy Cần đã tin theo đạo
Kitô. |