Thánh TỐNG VIẾT BƯỜNG

(bị bắt tháng 12-1832, xử trảm 23-10-1833)

Trích Từ Dòng Máu Anh Hùng Tập I-III của Lm Vũ Thành

 

Quan đội Tống Viết Bường sinh tại Phủ Cam gần kinh thành Huế, trong một gia đình Công Giáo và có chức tước trong triều đình. Trong thời gian đi lính, ngài tỏ ra lanh lợi và can đảm nên được vua Minh Mệnh cho làm cai đội coi 50 người, về sau ngài còn được cất nhắc lên làm quan thị vệ. Quan Phaolô Bường một mực giữ đạo, hết lòng thờ phượng Chúa và trung thành với vua.

Khoảng năm 1831, có giặc cướp đến phá phách ở Đá Vách thuộc tỉnh Quảng Ngãi, vua sai ngài đi dẹp giặc. Khi trở về ngài tâu trình với vua thì vua hỏi ngài có đến chùa Non Nước không, nhưng ngài khéo léo thưa lại rằng: "Vì Bệ Hạ không có dậy bảo nên thần chẳng dám đi". - "Thường thường các quan khi dẹp giặc yên trở về hay đi viếng chùa sao ngươi lại không đi?" - "Hạ thần là người có đạo Công Giáo nên không đi viếng chùa".

Vua Minh Mệnh liền nổi giận mắng nhiếc và ra lệnh bắt ngài bỏ đạo. Quan đội Bường nhất quyết một mực xưng đạo nên bị đánh 80 trượng và tước đoạt các chức tước, và phải đầy làm tôi tớ trong cơ binh. Nhờ đút lót tiền cho quan, ông được về nhà thong dong.

Một năm sau, nhân khi vua Minh Mệnh ra lệnh kê khai các lính thị vệ có đạo mới thấy thiếu tên ông đội Bường, vua liền ra lệnh bắt ngài, năm ấy ngài 50 tuổi. Hôm ấy vào tháng 12, 1832. Cha M. De Lamotte, lúc ấy đang giảng đạo tại kinh đô Huế, viết về cuộc xưng đạo của quan đội Bường như sau: "Tháng 12, quan đội Bường cùng với 6 người lính thị vệ bị bắt giam trong ngục, phải mang gông cùm. Một người đã chết trong tù ngày 8-3-1833. Một người khác cũng anh hùng xưng đạo là ông Tađêo Quyền, con rể của quan đội Bường".

Có một hôm, quan coi ngục muốn đổi gông nhẹ cho đội Bường, nhưng ngài đã thưa lại rằng: "Xin quan bỏ thêm xích xiềng cho nặng hơn vì trước đây họ có đánh tôi nhưng cũng chưa đủ".

Trong những lần tra khảo, đội Bường một mực chỉ nói về đạo mà thôi. Nếu quan ra lệnh bỏ đạo thì ngài thưa: "Tôi nhất định không chịu. Chúa đã dựng nên trời đất muôn vật mà tôi thờ phượng xưa nay, làm sao tôi có thể bỏ được?"

Mỗi lần khẳng khái thưa như vậy thì ngài lại bị đánh đòn. Lính cố gắng kéo chân ngài qua ảnh chuộc tội song ngài cố co chân lên và la lớn rằng: "Đây là việc quan lớn làm, tôi không chiều theo đâu".

Đánh đòn không ăn thua gì, quan lại dỗ dành và bảo: "Này, hãy theo thời mà sống. Bây giờ vua đang cơn thịnh nộ thì hãy tạm vâng lời bỏ đạo đi cho đẹp lòng vua một lúc, sau này sẽ hay, việc chi mà phải cứng cỏi làm vậy?"

Quan đội Bường thưa lại: "Quan lớn có lòng thương tôi thì tôi xin thưa rằng: hãy để tôi trọn một lòng trung hiếu cùng Thiên Chúa của tôi".

Khi bị giam ở trấn phủ, ông bị tra khảo 3 lần mỗi tháng. Ở trong tù ông thường khuyên nhủ các đồng đạo cũng bị giam như sau: "Chúng ta hãy vui lòng chịu mọi sự khốn khó để giữ nghĩa cùng Chúa cho đến khi nào thánh ý Chúa định thể khác. Nếu quan có hành hạ thì cũng để mặc. Hễ xác chết rồi thì hồn chúng ta bay thẳng về trời, không sợ gì roi đòn. Chịu sự khó như vậy là vác thánh giá theo Chúa Giêsu. Nếu có đau đớn quá thì hãy xin Đức Mẹ phù trợ cho được bền lòng đến cùng".

Có lần mấy người ngoại đạo khuyên dụ các lính trẻ chối đạo, đừng theo gương ông đội Bường đã già, nhưng hãy nghĩ đến vợ con, cha mẹ ở nhà, như vậy có phải đi đạo là tốt không? Lập tức ông đội Bường trả lời ngay: "Bên đạo chúng tôi ai chết trẻ là đi đường tắt, ai chết già là đi đường trường. Song đàng nào cũng tới quê thật là nước thiên đàng vậy".

Sau nhiều ngày giam tù và khuyên bảo không được, các quan làm án xin vua ra lệnh xử tử, song vua muốn hành hạ nhiều hơn. Dầu vậy ngài vẫn một mực trung thành, các quan tâu lại với vua rằng: "Người Công Giáo thật cứng lòng, dù có gia hình đến đâu cũng không thay đổi, vậy xin theo phép nước mà khép án cho xong, kẻo để lâu ngày mất công vô ích".

Lúc ấy Vua Minh Mệnh mới ưng cho các quan bộ hình ra án trảm quyết và phải bêu đầu quan đội Bường, người thông ngôn Micae, con rể quan đội Bường, và 6 binh sĩ: Vui, Mang, Quân, Hang, Minh và Phú.

Riêng quan đội Bường phải đem đi xử trước vào ngày 23-10. Khi hay tin, ngài gọi các bạn tù lại và xin họ cầu nguyện cho ngài được ơn bền đỗ xưng đạo Thánh Chúa và cũng để từ giã họ nữa. Tới giờ, lính đến điệu ngài đi. Lúc bấy giờ đã chiều tối họ phải mang đuốc đi theo. Đi đầu là một tên lính cầm bản án rao to rằng: "Người này bị xử vì theo đạo Gia Tô, nên phải xử trảm quyết, đầu treo 3 ngày". Họ đi rất nhanh, đội Bường nói đùa với họ: "Các bạn việc gì mà phải đi nhanh thế? Tôi biết đường mà, chúng ta không lạc đâu!"

Khi đến họ Thợ Đúc, gần Trường An, vua còn sai quan đến khuyến dụ ngài đạp ảnh chuộc tội để được tha. Quan nói rằng: "Đội Bường, ông không phải là tướng cướp, cũng không phải là tên giặc. Ông không có tội gì ngoài tội theo đạo Công Giáo, ông hãy xuất giáo rồi vua sẽ tha cho ông và hoàn cấp bực lại cho ông".

Ngài liền thưa với quan giám sát rằng: "Xin điệu tôi đi xử cho mau, cho tôi được về với Chúa, còn việc bỏ đạo thì không bao giờ tôi theo".

Lúc ấy cô con gái của ngài cũng ra nhìn mặt cha lần cuối. Nơi xử là nền nhà thờ cũ của họ Thợ Đúc. Nhưng cầu sang bên ấy bị gẫy nên lính cho xử ngài ngay tại gần nhà con gái. Ngài xin họ cho ít phút để cầu nguyện. Khi đã sẵn sàng ngài nói với họ: "Việc tôi đã rồi". Người lính đao phủ liền chém đầu ngài. Quan cho phép đem xác ngài đi chôn, còn đầu phải bêu tại nền nhà thờ Thợ Đúc 3 ngày theo lệnh của vua. Đức Thánh Cha Leo XIII tôn phong ngài lên bậc Chân Phước ngày 27-5-1900.

 

Phaolô Tống Viết Bường, quan thị vệ; sanh tại Phủ Cam, Huế; chết 23 tháng 10, 1833, tại Thợ Ðúc. Ngài là quan cận vệ của Vua Minh-Mệnh. Khi theo đạo ngài thuộc Hội Thừa Sai Balê. Ngài bị bắt năm 1832, bị cách chức, và bị tra tấn nhiều năm trước khi bị xử trảm (chém đầu) Phong Á Thánh 1900. Ngày Lễ: 22 tháng 10.

Buong Tong Viet, Paul (Paul Doi Buong, Paul Tong Viet Buong, Phaolô Tống Viết Bường), soldier; b. in Phủ Cam, Huế (Cochin-China); d. Oct. 23, 1833, in Thợ Ðúc. He was the captain of the Emperor Minh-Mệnh's bodyguard. As a Christian he became attached to the MEP. He was arrested in 1832, degraded, and suffered for months before he was beheaded. Beatified 1900. Feast: Oct. 22. 

001. Phêrô Almato Bình

002. Berrio-Ochoa Vinh

003. Gioan Lu-i Bô-na Hương

004. Phaolô Tống Viết Bường

005. Giuse Phạm Trọng Tả

006. Ða Minh Cấm

007. Phanxicô Xaviê Cần

008. Giuse Hoàng Lương Cảnh

009. Catanhêđa, Jacinto Gia

010. Phanxicô Ðỗ Văn Chiểu

011. Gioan Baotixita Cỏn

012. Jean-Charles Cornay Tân

013. Stêphanô-Théodore Cuénot Thể

014. Matthêô Nguyễn Văn Ðắc (Phượng)

015. Phêrô Ða

016. Ðaminh Ðinh Ðạt

017. Gioan Ðạt

018. Tôma Nguyễn Văn Ðệ

019. Clêmentê Ignaxiô Delgaho Hy

020. Giuse Maria Diaz Sanjuro An

021. Antôn Nguyễn Ðích

022. Vinh Sơn Nguyễn Thế Ðiểm

023. Tôma Ðinh Viết Dụ

024. Bênađô Võ Văn Duệ

025. Phêrô Dumoulin-Borie Cao

026. Anrê Trần An Dũng (Lạc)

027. Phêrô Ðinh Văn Dũng

028. Phaolô Vũ Văn Dương (Ðổng)

029. Phêrô Trương Văn Ðường

030. Vinh-sơn Dương

031. Giuse Fernandez Hiền

032. Phanxicô-Isidore Gagelin Kính

033. Matthêô Lê Văn Gẫm

034. Melchior Garcia-Sampedro Xuyên

035. Phanxicô Gil de Fedrich Tế

036. Ðaminh Nguyễn Văn Hạnh

037. Phaolô Hạnh

038. Ðaminh Henares Minh

039. Jêrônimô Hermosilla Liêm

040. Giuse Ðỗ Quang Hiến

041. Phêrô Nguyễn Văn Hiếu

042. Simon Phan Ðắc Hòa

043. Gioan Ðoàn Trinh Hoan

044. Lôrensô Nguyễn Văn Hưởng

045. Augustinô Phan Viết Huy

046. Ðaminh Huyện

047. Micae Hồ Ðình Hy

048. Phanxicô Jaccard Phan

049. Ðaminh Phạm Trọng Khảm

050. Giuse Nguyễn Duy Khang

051. Phêrô Khanh

052. Phêrô Võ Ðăng Khoa

053. Phaolô Phạm Khắc Khoan

054. Tôma Khuông

055. Matthêô Alonzo-Leciniana Ðậu

056. Vinh-sơn Lê Quang Liêm

057. Luca Vũ Bá Loan

058. Phaolô Lê Văn Lộc

059. Giuse Nguyễn Văn Lựu

060. Phêrô Nguyễn Văn Lựu

061. Ðaminh Mạo

062. Ðaminh Mầu

063. Giuse Marchand Du

064. Phanxicô Xaviê Hà Trọng Mậu

065. Philiphê Phan Văn Minh

066. Augustinô Nguyễn Văn Mới

067. Micae Nguyễn Huy Mỹ

068. Phaolô Nguyễn Văn Mỹ

069. Giacôbê Ðỗ Mai Năm

070. Anrê Nguyễn Kim Thông (Năm Thuông)

071. Phêrô Phanxicô Néron Bắc

072. Phaolô Nguyễn Ngân

073. Giuse Nguyễn Ðình Nghi

074. Lôrensô Ngôn

075. Ðaminh Nguyên

076. Ðaminh Nhi

077. Ðaminh Ninh

078. Emanuen Lê Văn Phụng

079. Phêrô Ðoàn Công Quý

080. Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh-Nam

081. Augustine Schoeffler Ðông

082. Anê Lê Thị Thành (Bà Ðê)

083. Gioan Baotixita Ðinh Văn Thành

084. Nicôla Bùi Ðức Thể

085. Giuse Lê Ðăng Thị

086. Phêrô Trương Văn Thi

087. Mactinô Tạ Ðức Thịnh

088. Tôma Trần Văn Thiện

089. Luca Phạm Trọng Thìn

090. Máctinô Thọ

091. Phêrô Thuần

092. Phaolô Lê Bảo Tịnh

093. Ðaminh Toái

094. Tôma Toán

095. Ðaminh Trạch (Ðoài)

096. Êmanuen Nguyễn Văn Triệu

097. Anrê Trần Văn Trông

098. Phêrô Vũ Văn Truật

099. Phanxicô Trần Văn Trung

100. Giuse Tuân

101. Giuse Tuân

102. Phêrô Nguyễn Bá Tuần

103. Giuse Túc

104. Phêrô Nguyễn Khắc Tự

105. Phêrô Nguyễn Văn Tự

106. Ðaminh Tước

107. Anrê Tường

108. Vinh-Sơn Tường

109. Phêrô Lê Tùy

110. Ðaminh Bùi Văn Úy

111. Giuse Nguyễn Ðình Uyển

112. Phêrô Ðoàn Văn Vân

113. Giuse Thêophanô Vénard Ven

114. Giuse Ðặng Ðình Viên

115. Stêphanô Nguyễn Văn Vinh

116. Ðaminh Nguyễn Văn Xuyên

117. Vinh Sơn Ðỗ Yến

 

 

 
  Copyright © 2004 Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam, Giáo Phận Orange, California - U.S.A.  All rights reserved.
Mọi thắc mắc, xin gởi điện thư về:
[email protected]
1538 N. Century Blvd. Santa Ana, CA 92703
Tel.: (714) 554-4211

Fax: (714) 265-1161