Thánh LOUIS
BONNARD (HƯƠNG)
(bị bắt 21-3-1852, xử
trảm 1-5-1852)
Trích Từ Dòng Máu Anh Hùng Tập
I-III của Lm Vũ Thành
Mở đầu bài tường
thuật hết sức đặc
biệt về cuộc tử
đạo của Thừa Sai
Bonnard, Đức Cha Retord đã
viết: "Từ khi tôi tới
Bắc Việt đã viết
bao nhiêu bài tường thuật
các biến cố oai hùng của
những người kiên trung
xưng đạo. Nhưng hôm
nay tôi sắp sửa tường
trình một việc không những
liên hệ tới xứ truyền
giáo của chúng tôi mà còn liên hệ
đến toàn thể giáo hội
nữa, đó là cuộc tử
đạo của Jean Louis Bonnard".
Trong lá thư viết cho vị
anh hùng tử đạo trước
ngày bị hành quyết, Đức
Cha Retord đã mượn ý tứ
của tên Hương để
nói với vị anh hùng: "Cha
xin tôi chúc lành, tôi đã chúc lành
cha ngay từ khi cha đặt
chân tới xứ truyền giáo
này, nó sẽ theo cha về nơi
vĩnh cửu. Thật vậy
tôi đã chúc lành cho cha khi đặt
tên cho cha là cha Hương, một
tên thật đẹp bao gồm
ý nghĩa cha của quê hương,
cha của hương dâng, cha
của hương thơm. Lúc
này quê hương yêu dấu hiển
hiện ra sáng chói trước
mặt và cha sắp sửa trở
thành một người công dân
hạnh phúc. Chính lúc này hương
trầm quí giá sắp được
đốt trên bàn thờ tử
đạo và khói hương của
nó bay bổng lên tòa cao của
đấng vĩnh cửu. Chính
lúc này hương thơm ngây ngất
làm say mê Chúa Giêsu như xưa
Maria Mađalêna đã làm và hương
thơm còn làm vui sướng các
thiên thần và loài người,
trên trời cũng như dưới
đất. Như thế tôi đã
chúc lành cho cha đã từ lâu rồi
vậy. Tuy vậy tôi còn chúc lành
cho cha nữa, xin Thiên Chúa là sức
mạnh nâng đỡ cha ngoài
pháp trường của các dũng
sĩ, xin công nghiệp của
Chúa Con an ủi cha trên đồi
Calvariô cha sắp bước lên,
xin tình yêu sốt mến của
Chúa Thánh Thần chiếu sáng tù
ngục cha sắp bước
ra khỏi để lãnh triều
thiên tử đạo. Bạn
yêu dấu, hãy được
chúc phúc và khi bạn lên trời,
đến lượt bạn
chúc phúc cho chúng tôi, cho xứ truyền
giáo và cho các giáo dân mà cha hằng
quí mến. Xin hãy là trạng sư,
là người bầu cử cho
chúng tôi còn đang bước
đi trong vũng bùn dương
thế. Xin bầu cử cho chúng
tôi sớm được hợp
hoan với cha".
Vị anh hùng đặc biệt
mà Đức Cha Retord nói tới
chính là Cha Bonnard Hương, sinh
tại Christoten Jarret ngày 1-3-1824
trong một gia đình đạo
hạnh từ nhiều đời.
Từ khi được 10 tuổi
cậu Bonnard đã đi tu nhưng
mãi đến năm 20 tuổi
cậu mới tốt nghiệp
chủng viện Lyon và vào chủng
viện truyền giáo Paris.
Sau khi chịu chức linh mục
hai tháng, cha đã xuống tầu
Nantes để sang Á Đông. Cha
đến địa phận
vào mùa Phục Sinh năm 1850 giữa
cơn dịch tả đang hoành
hành. Cha bắt tay ngay vào việc
học tiếng Việt Nam và
cuối năm 1850 cha đã bắt
đầu giải tội và giảng
dậy tại nhà thờ. Đức
Cha Retord dẫn Cha Bonnard đi
theo làm việc mục vụ tại
các họ cho quen biết và thành
thạo các phương pháp làm
việc truyền giáo. Cha đã
tỏ ra là một linh mục
hiền hòa, sốt sắng vâng
lời và nhiệt thành việc
tông đồ, cha vừa hiền
lành khiêm nhường vừa đơn
sơ thành thật. Trước
những đức tính cao quí
ấy, Đức Cha Retord biết
chắc vị thừa sai trẻ
tuổi này sẽ có sức đương
đầu với các sóng gió. Cuối
tháng 4-1852, Đức Cha chỉ
định Cha Bonnard coi hai xứ
Kẻ Báng và Kẻ Trình trong khi
vua Tự Đức mới ra
lệnh cấm đạo năm
1851.
Mùa Chay năm 1852 Cha Bonnard cùng
với năm cha Việt tổ
chức tuần đại phúc
và giảng cấm phòng cho giáo
dân Kẻ Báng. Sau đó họ
Bối Xuyên mời Cha Bonnard sang
làm phúc cho họ. Cha Thảo khuyến
khích ngài cứ yên tâm sang họ
Bối Xuyên, một họ chỉ
có khoảng mười gia đình,
một phần tư dân số
của làng. Đến Bối
Xuyên giúp giáo dân ba ngày, Cha Bonnard
đang muốn đi thì giáo dân
năn nỉ xin cha ở lại
mà không ngờ có một người
đã đi báo quan. Thế là ngày
21-3 quan huyện Nghĩa Hưng
mang quân đến bắt cha.
Chính Cha Bonnard trong thư đề
ngày 2-4 đã thuật lại cuộc
vây bắt như sau: "Vào lúc
9 giờ sáng tôi đang làm phép
rửa tội cho khoảng hai
mươi lăm trẻ em nhưng
chưa xong thì quan ập đến
đầu làng mà tôi không hay gì.
Tức thì người giúp việc
giật áo các phép rồi đẩy
tôi đi trốn, tôi lội xuống
ao nước ngang lưng để
sang cánh đồng lúa cùng với
Thầy Kim. Trong khi phân vân không
biết chọn hướng nào
đi trốn thì lính ập đến
trói tay tôi lại thật chặt
đến nỗi sưng lên khiến
tôi phải kêu xin nới rộng
nhưng họ không cho nên tôi đành
chịu vậy. Thế là họ
bắt tôi, thầy Kim và chú Ba,
người đi theo mang mấy
đồ cần cho tôi. May mà
tôi đã ra khỏi làng nên các đồ
đạo và dân chúng không bị
bắt. Bọn lính lôi tôi đi
trên bùn rất nhanh được
một lúc thì tôi kiệt sức,
máu chảy dưới chân. Tôi
cười nói với lính áp giải:
'Việc gì mà vội thế, các
ông muốn vội thì đi trước
đi, tôi từ từ đến
sau�. Trên đường
dân chúng đổ xô ra xem. Tới
tối thì về đến huyện,
người của Cha Thảo
mang 10 nén bạc để thương
thuyết hay ít nhất xin họ
tha thầy Kim và chú học trò.
Nhưng mọi cửa đóng
kín, quan đang say sưa uống
rượu với kẻ tố
giác. Sáng hôm sau họ giải ba
chúng tôi về tỉnh Nam Định".
Sau đó ngài bị tra hỏi
tại huyện về tên tuổi
và thời gian đến đây.
Về câu hỏi tại sao đến
ở Bối Xuyên, Cha Bonnard nhất
mực không trả lời, Thầy
Kim cũng vậy, giữ im lặng
để tránh phiền lụy
cho dân làng. Sau đó quan bắt
ngài đeo gông. Tối hôm ấy
cha được ngủ dưới
ổ rơm trống trải
tứ phía. Cha lần mò hỏi
han xem có cách nào chuộc cho hai
người bạn tù không nhưng
họ trả lời không có cách
nào cả. Quan huyện có họ
với vua đã làm một tờ
trình đầy phô trương
như mang chín đội quân trên
năm trăm người đi
bắt... Cha Bonnard phó mặc trong
tay Chúa.
Khi bị giải lên tỉnh,
cha được ngồi võng
cho họ khiêng đi, cổ vẫn
mang gông. Tới sảnh đường
họ trói cả ba tù nhân đức
tin vào một cây cột lớn,
trước đám đông dân
chúng hiếu kỳ đến
xem. Sau nửa giờ quan tổng
đốc ra nhận tù mà không
nói lời nào, sau đó lính dẫn
các ngài vào nhà tù. Cha Bonnard tự
nhủ: "Tôi mang theo áo Đức
Bà, tràng hạt và thánh giá cùng với
gông xiềng là kho tàng tôi sẽ
không đánh đổi kể
cả ngai vua".
Đức Cha Retord hay tin đã
sai người tới săn
sóc và kèm thư an ủi. Vài ngày
sau, Cha Tịnh (tử đạo
sau này) đến giải tội
và trao Mình Thánh Chúa cho ngài. Nhân dịp
này Cha Bonnard viết thư nói
lên tâm tình ở trong tù: "Thật
vậy, phải ở trong tù đeo
gông mang xích mới có thể diễn
tả sự ngọt ngào được
chịu khổ đôi chút vì Đấng
đã yêu mến chúng ta quá bội.
Xích gông có nặng nhưng không
làm khổ chúng tôi, trái lại
tôi biết rằng thánh giá của
Chúa còn nặng hơn gông chúng
tôi mang, xích xiềng của Ngài
còn khó mang hơn xích của chúng
tôi. Tôi vui mừng mà nói được
rằng tôi bị xích cùng với
Chúa Kitô". Đời sống
ban đầu trong nhà tù còn dễ
chịu, có người đến
thăm hỏi, nhưng về
sau quan cấm không cho ai lui tới,
vị anh hùng cảm thấy cô
đơn và cuộc chiến
trở nên gay go.
Cha Bonnard bị điệu ra
trước mặt quan lớn
tra hỏi bốn lần. Lần
thứ nhất quan hỏi: "Tên
ông là gì?"
-"Tên Việt Nam của tôi
là Hương, tên gia đình là
Bonnard".
Các quan lúng túng mãi vì không biết
đọc và viết tên của
ngài như thế nào, sau cùng ghi
là Bona, và hỏi tiếp:
- "Ông bao nhiêu tuổi?"
- "29 tuổi".
- "Ông người nước
nào và đến đây từ
bao lâu?"
- "Tôi người Pháp, đến
đây từ hai năm, trước
hết bằng tầu Pháp đến
Macao rồi bằng tầu nhỏ
của người Trung Hoa".
- "Ông xuống từ hải
cảng nào?"
- "Tôi không còn nhớ rõ".
- "Các nơi ông đã đi?"
- "Tôi đi rất nhiều
nơi không còn nhớ tên, nếu
tôi nhớ tôi cũng không bao giờ
nói cho các quan biết".
- "Ông làm gì ở Bối Xuyên?"
- "Tôi qua đó có vài công chuyện
chứ không định ở
lại đó".
- "Ông ở nhà ai tại đó?"
- "Tôi không muốn nói".
Cứ thế các quan vặn hỏi
để tìm cách bắt tội
người giáo dân Việt Nam
và kiếm thêm tiền đút lót.
Biết vậy nên cha Bonnard vừa
cười vừa nói:
-"Các quan cứ việc đánh
đòn tôi đi theo như ý thích
các quan, đừng trông tôi khai
một lời nào có hại cho
giáo dân. Tôi đến đây để
phục vụ cho đến chết".
- "Chúng tôi không muốn làm hại
dân".
- "Vậy tại sao các quan
cứ ép buộc tôi khai ra người
đã cho tôi trú?"
Mọi người chỉ biết
cười. Quan hỏi tiếp:
- "Ông có muốn đạp
ảnh dưới chân không? Nếu
ông ưng chịu chúng tôi sẽ
gửi trả ông về Tây Phương.
Ngược lại, ông sẽ
bị đánh đòn và kết
án phải xử tử".
- "Tôi đã thưa với
các quan lớn là tôi không sợ
roi đánh cũng chẳng sợ
chết, tôi sẵn sàng chịu
mọi hình khổ, còn bắt
tôi làm một tội ghê tởm
thì không bao giờ tôi chịu theo.
Tôi đến xứ nầy không
phải để chối bỏ
đạo của tôi hay làm gương
xấu cho các tín hữu".
Nghe những lời khôn ngoan vững
mạnh như thế, các quan
im lặng và sai mang ngài trở
về nhà tù.
Ngày hôm sau các quan lại cho điệu
ra tra hỏi những câu hỏi
như hôm trước và cũng
không biết được thêm
gì. Các quan nói với nhau chúng ta
không có cách nào biết ngoài việc
tra hỏi hắn. Cha Bonnard lại
được cho về nhà tù.
Lần thứ ba quan cho điệu
Cha Bonnard và Thầy Kim ra công đường
để thúc ép tiết lộ
tên người cho trọ và những
nơi đã đi qua. Cha Bonnard
trả lời: "Chính vì để
làm ích cho người đồng
hương của quí quan chứ
không phải để làm hại
họ mà tôi bỏ Âu Châu đến
đây. Nếu tôi, một người
ngoại quốc, còn yêu mến
nhân dân xứ này và không muốn
nói điều gì có hại cho
họ thì các quan càng có lý mạnh
hơn là cha mẹ của dân phải
tránh những câu hỏi có hại
cho họ chứ?"
Cha Bonnard học lời khai của
Cha Charrier nói thêm rằng: "Nếu
tôi bị bắt ở tỉnh
khác, các quan có muốn tôi khai ra
rằng tôi ở trong tỉnh
này của quí quan không? Và nếu
tôi khai như thế các quan có
bị khiển trách không?"
Không lung lay được vị
thừa sai, các quan nạt nộ
Thầy Kim. Cứ mỗi lời
của Thầy Kim họ kèm theo
lời dọa nạt và roi đánh.
Thầy bị đánh hai chục
roi, miệng ú ớ. Cha Bonnard
lại lên tiếng với giọng
mỉa mai: "Tôi biết rõ việc
của các ông và tôi cũng biết
các câu hỏi đều dư
thừa. Nếu các quan muốn
tránh khỏi bẽ bàng và bớt
khổ cho người này, các
quan hãy làm tờ trình một cách
khôn ngoan. Các ngài không thấy rằng
đánh đập người
trẻ này chỉ có được
những lời khai dối trá
làm liên lụy đến những
người vô tội sao?"
Trước những lời nói
khí phách và sâu sắc của ngài,
các quan bảo Thầy Kim đến
hỏi cha để trả lời
các câu hỏi cho hợp và các quan
có thể kết thúc nội vụ.
Cha Bonnard đọc cho thầy
viết lời khai rất chính
xác và an toàn.
Lần sau cùng các quan yêu cầu
Cha Bonnard viết một ít lời
khai bằng tiếng Pháp về
tên tuổi việc làm như đã
hỏi trong các lần trước
để trình vua. Riêng các thầy
mỗi lần bị tra hỏi
đều bị đánh đòn
hai chục roi. Trong khi bị đánh,
Thầy Kim vạch một dấu
thánh giá để nhìn vào đó
suy gẫm các khổ hình của
Chúa Giêsu. Trong lần thứ ba
quan đem ra một bức tượng
thật to bằng đứa
trẻ 12 tuổi tịch thu được
trong nhà các cha Đaminh, chỉ
còn nửa đầu, tay chân bị
gẫy, và bắt các thầy hôn.
Các thầy từ chối vì không
biết là tượng Chúa hay
tượng Phật. Nhiều
người cười. Các quan
thượng muốn làm tờ
trình rằng hai thầy đã
đạp ảnh nhưng các
thầy đã chính thức viết
giấy phản đối và
xin được chịu chết.
Tờ trình của các quan viết
như sau: "Sau khi tra xét ba tên
tù phạm ở công đường,
chúng tôi biết rằng một
trong ba người là đạo
trưởng Gia Tô người
Âu Châu. Nó có mũi dài, râu rậm,
tóc ngắn và mắt vàng, da trắng
bạch. Nó tự xưng tên là
Bona, người Pháp, 29 tuổi...
Từ Macao nó đến bờ
biển Việt Nam thấy có
thuyền đánh cá hai người
chèo làm dấu thánh giá và đã
lên thuyền. Dấu thánh giá là
dấu người theo đạo
Gia Tô. Nhờ đêm tối họ
vào được trong đất
liền. Hắn đã ở nhiều
nơi khác nhau, không biết tiếng
Trung Hoa, khi nói có pha nhiều tiếng
Âu Châu mà hắn không biết giải
thích. Đó là một giống
người hoàn toàn khác với
chúng ta. Nó từ chối trả
lời các câu hỏi. Đúng là
tên mọi rợ Âu Châu, một
tên đại nghịch, không cần
chứng cớ nào khác để
kết án xử tử..."
Sau đó quan tường trình
về hai người Việt:
"... Còn về nơi và làng
tên Bona đã đi qua chúng không
chịu khai. Chúng có mồm sắt
không muốn mở miệng. Chúng
cũng không chịu đạp
ảnh và xin được chịu
chết. Tuy nhiên chúng tôi sẽ
xét lại trường hợp
của chúng và tâu trình hoàng thượng
sau".
Bản án được gửi
về triều đình ngày 5-4
và cuối tháng bản phê án về
tới tỉnh. Đang đêm,
một giáo dân biết được
tin đích xác đã thông báo cho
các giáo dân khác. Mọi người
nghĩ buổi hành quyết sẽ
xảy ra vào buổi chiều
nên các giáo dân khắp nơi đổ
tuốn về thành. Từ trưa,
các đường phố và cửa
dẫn ra pháp trường đã
đông nghẹt người.
Thấy vậy các quan muốn
tránh né đám đông nên hoãn lại
ngày hành quyết vào hôm sau, 1-5,
ngày đầu tháng kính Đức
Mẹ. Nhưng ngày hôm đó giáo
dân từ xa cũng đến
kịp. Sáng sớm họ đã
kéo ra cánh đồng quen xử
các tội nhân. Nhưng họ
ngạc nhiên khi thấy năm
trăm lính với gươm
giáo sẵn sàng đi theo hướng
ngược lại. Lính phải
vất vả lắm mới có
thể duy trì trật tự để
đến nơi gọi là Đan
Thủy cạnh sông, cách thành một
dặm rưỡi. Cha Bonnard vẫn
giữ vẻ mặt tươi
vui hiên ngang tiến đến
nơi hành hình. Tới nơi,
lý hình trói tay đàng sau và buộc
vào một cọc thật chặt
đến rướm máu. Lúc
ấy các quan không mang đủ
dụng cụ để tháo gông
và chặt xích nên phải chờ
đợi hơn một giờ
để đi lấy. Trong khi
ấy vị anh hùng tử đạo
vẫn quì gối đọc kinh
sốt sắng như một
cột đứng vững. Sau
cùng khi đã tháo gông và chặt
xích, vị quan giám sát đến
tận nơi túm tóc và cột
lên để giơ cổ ra cho
lý hình chém. Quan giám sát trở lại
chỗ cũ trên mình voi ra lệnh
đánh chiêng. Tiếng chiêng mới
ngân đến tiếng thứ
ba thì đầu vị anh hùng
đã rơi xuống đất,
máu phun ướt đẫm áo.
Lính cầm roi đánh túi bụi
vào đám đông đang ùa vào
thấm máu. Chính các người
lính đã độc quyền
lấy áo quần của vị
tử đạo, gông và ba móc
sắt để chia phần
ra bán cho dân chúng.
Thông thường phải chôn
xác tử tội ngay tại chỗ
hành hình và giáo dân đã sẵn
sàng quan tài và đồ liệm,
nhưng vị quan không muốn
cho giáo dân có di tích gì của tử
tù nên truyền cho một đội
quân đem xác và đất thấm
máu xuống một chiếc thuyền
lớn, và một chiếc thuyền
khác chở quan đi xuôi theo dòng
sông để tìm chỗ vứt
xác. Họ mang theo lương
thực đủ ăn ba ngày.
Giáo dân cũng được
lệnh chèo thuyền theo sát. Đến
buổi chiều một số
thuyền đánh cá khác chèo thuyền
ra phía bể. Vào khoảng 8 giờ
trời tối, thuyền của
quan và lính đến địa
phận Tam Tòa đã bỏ xác
xuống và kéo buồm trở
về. Ngay lúc đó giáo dân nhận
diện vị trí và một lát
sau các thuyền đánh cá tụ
họp thay phiên nhau lặn xuống
để tìm xác. Chỉ trong chốc
lát một người thanh niên
đã giơ tay lên reo mừng:
"Tôi đã tìm thấy".
Nhiều người túm lại
lặn xuống để tháo
túi đá quan buộc vào xác và đưa
xác lên. Vào khoảng một giờ
đêm các giáo dân mang xác Cha Bonnard
về tới Vĩnh Trị.
Sau khi mặc áo chức và tẩm
liệm đủ lễ bộ
xác được đặt
trong quan tài bằng gỗ quí để
giữa rừng đuốc sáng
trong nhà thờ cho dân chúng bái kính
cho đến chiều hôm sau.
Chính Đức Cha Retord và ba linh
mục khác cùng với chủng
sinh làm lễ an táng. Xác thánh nhân
ở mãi trong lòng học viện
Kẻ Vĩnh. |