Thánh Phêrô Almato Bình
(bị bắt 25-10-1861, xử trảm
1-11-1861 tại Hải Dương)
Đức Cha Alcazar tóm tắt cuộc
sống thánh thiện và anh hùng của
Cha Phêrô Almato như sau: "Tôi theo
dõi suốt cuộc đời của
ngài và có thể làm chứng rằng
ngài không bao giờ phạm một
tội trọng nào, lại hết
lòng gìn giữ đức trong sạch
trinh khiết. Mặc dù sức khỏe
yếu kém, người ta chỉ
có thể nói rằng Thiên Chúa định
cho ngài sang truyền giáo ở Việt
Nam là để thưởng công
triều thiên tử đạo cho
ngài. Quả thật Đức Cha
Hermosilla đã ra lệnh cho Cha Almato
và Cha Munoz di tản sang Trung Hoa để
tránh cơn lùng bắt dữ tợn,
nhưng Chúa để cho Cha Almato
nhỡ tầu, còn Cha Munoz đi được.
Cha Munoz viết thư cho ngài: �Này
anh Almato, lẽ ra anh phải sang
Macao chứ không phải là tôi. Như
đức cha già khả kính Hermosilla
đã định, nhưng tôi không
được phúc tử đạo,
còn Thiên Chúa thưởng nhân đức
anh bằng phúc tử đạo".
Cha Almato sinh ngày 1-11-1830 tại Catalogna,
Tây Ban Nha, được cha mẹ
đạo đức đem đi
rửa tội ngay và đặt tên
thánh là Phêrô Giuse. Ngay từ bé cậu
Almato đã tỏ ra lòng đạo
đức, thích đồ chơi
bằng nhà thờ hay đóng kịch
làm cha đứng giữa các bạn
giảng đạo. Khi lên 11 tuổi
đã đi học Latinh và tháng 8-1847
vào dòng Đaminh ở Ocanha để
sửa soạn đi giảng đạo
ở phương Đông. Cha mẹ
không muốn cho con đi xa, nhưng
ngài đã can đảm viết thư
cho cha mẹ như sau: "Cha mẹ
đừng than khóc vì đứa
con phải đi xa, nhưng hãy vui
mừng vì ở trên trời cha mẹ
sẽ được phần thưởng
vì những hy sinh. Hạnh phúc cho
chúng ta dường nào được
gặp nhau ở trên đó, luôn luôn
được hiệp nhất với
nhau trong vinh quang và không còn phải
xa cách nhau nữa. Cha mẹ hãy nghĩ
rằng Chúa đã xếp đặt
như thế không phải để
chúng ta khổ nhưng là để
chúng ta được sự tốt
lành, được thanh tẩy và
thánh hóa trong cuộc sống đời
này và được phần thưởng
trong cuộc sống mai sau".
Quả thật là những lời
lẽ cao siêu của một tâm hồn
đã xác tín muốn yêu Chúa đến
mức độ tuyệt hảo.
Sau nhiều thử thách và gắng
sức tu luyện, Thầy Almato
được khấn trọng
thể ngày 26-9-1848. Trong dịp này
thầy có viết thư cho cha mẹ:
"Cha mẹ quí mến, những
việc lo dưới thế là mong
làm cho con đường thu ngắn
lại và chắc chắn hơn,
con cũng vậy, con phải làm
cho việc cứu rỗi linh hồn
con chắc chắn. Con không những
chắc chắn về cuộc sống
hiện tại mà con mong cho các anh
em con sớm bỏ biển khổ
đầy lo lắng quen gọi
là thế gian". Về đời
sống trong viện tu, Thầy Almato
viết: "Ở đây con được
bề trên lo lắng săn sóc mọi
sự cần, mặc dù chúng con đông
nhưng tình thương bao bọc
đồng đều mọi người
dường như là một vậy.
Con chẳng phải nghĩ gì khác".
Viết cho người em gái đi
tu, thầy khuyên: "Không có gì xảy
ra tình cờ, không có biến cố
nào mà không có báo trước. Những
điều bất hạnh xem ra
là sự dữ nhưng nếu chúng
ta biết suy nghĩ cho kỹ, chúng
ta sẽ thấy sự dữ là
một điều lành, trong cái rủi
ro là một may lành. Nếu anh cứ
tiếp tục than trách, anh sẽ
chẳng bao giờ hết vì trong
lòng chứa đầy sự cay
đắng".
Tháng 9-1852, Thầy Almato được
chỉ định sang Manila và chịu
chức bên đó trước khi
được lệnh sang Bắc
Việt. Cha viết về mong ước
sang Bắc Việt với người
bạn: "Đã từ lâu tôi ước
ao được sang truyền giáo
ở Bắc Việt. Tôi đã nhiều
lần kêu xin với Chúa và Đức
Mẹ và đã thưa với các
bề trên. Chúa đã nghe lời tôi.
Tôi cảm tạ Chúa đã thương
chọn tôi cùng với ba cha khác đi
truyền bá Phúc Âm cho dân ngoại."
Ngày 11-1-1855 cha, lúc ấy mới 24
tuổi, lên đường đi
Hồng Kông. Bao nhiêu khổ cực,
bao nhiêu hy vọng trên chuyến hành
trình, cha ngước mắt lên trời
cao như muốn cho hy vọng thêm
bao la. Bẩy tháng sau, ngày 3-7-1855,
cha rời Macao để đến
Bắc Việt và tới nơi ngày
11-7 tại Nam Chân. Cha được
đưa đến trình diện
cha đại diện tỉnh dòng
Salvatore Masso và sau đó được
tới Bùi Chu vào dịp lễ phong
chức giám mục cho Cha Sampedro ngày
1-9. Cha Almato được đặt
tên Việt là Bình, diễn tả
tâm hồn bình an của cha. Cha học
tiếng Việt tại Kẻ Mốt
một năm và sau đó được
sai giúp Cha Fernandez trước khi
được chỉ định
coi xứ Thiết Nham.
Giáo dân xứ Thiết Nham nói về
vị chủ chăn của mình
như sau: "Cha Bình (Almato) thường
xin chúng tôi cầu nguyện cho ngài.
Như thế tâm hồn sốt sắng
của ngài thúc đẩy con chiên
chúng tôi chạy đến với
ngài". Năm 1858 lệnh vua Tự
Đức bắt đạo ngặt
nghèo nên Đức Cha Hermosilla truyền
lệnh cho Cha Almato tạm thời
sang Trung Hoa vì ngài kém sức khỏe,
sợ không chọi nổi cảnh
trốn chạy mà chết uổng
đi. Nhưng ý Chúa để cha
bị nhỡ cơ hội, cha đi
về Kẻ Mốt thăm đức
cha rồi trốn tránh ở Kẻ
Nê, ở Thọ Ninh.
Năm 1861 với lệnh phân sáp
và không còn trốn tránh được
nữa, Cha Bình xuống thuyền
ở với Đức Cha Ochoa Vinh
hẹn đến với Đức
Cha Hermosilla. Thế nhưng thuyền
của Đức Cha Hermosilla và Thầy
Khang đã bị bắt ngày 20-10-1861.
Đức Cha Ochoa và Cha Almato được
ông trùm Trọng chèo thuyền về
Kim Phô nhờ một quan ở huyện
là Hán Cáp giúp đỡ. Ông quan này
nhận lời giúp đỡ nhưng
chính ông lại đi báo quan tỉnh
Hải Dương về bắt.
Ngày 25-10-1861 quan huyện Thanh Hà đến
bắt Đức Cha Ochoa và Cha Almato
giải về Hải Dương.
Quan tổng đốc Hải Dương
là Nguyễn Quốc Cẩm đặt
thánh giá ở cửa thành, nhưng
đức cha yêu cầu có cất
đi thì mới vào trong thành. Quan
hỏi Cha Almato về quê quán và thời
gian ở Việt Nam bao lâu, Cha Almato
đáp: "Tôi là người Tây
Ban Nha, sang Việt Nam được
bẩy năm, tôi rao giảng đạo
tại nhiều nơi".
Quan lại hỏi có biết Cha Tuấn
(tên thứ ba của Đức Cha
Hermosilla). Sau đó Đức Cha
Ochoa, Đức Cha Hermosilla và Cha
Almato, mỗi người một
cũi được giam chung với
nhau ở Trang Thu. Quan tổng đốc
là người hiền lành muốn
thong thả làm án tâu về kinh, nhưng
tổng đốc Nam Định
là Nguyễn Đình Hưng (Tân) sợ
triều đình khiển trách nên
ra lệnh làm án trảm quyết
ngày 1-11-1861.
Vào ngày lễ Các Thánh, Đức
Cha Hermosilla, Đức Cha Ochoa và
Cha Almato được 300 người
lính dẫn ra pháp trường Năm
Mẫu ở ngoài thành Hải Dương
để chém đầu. Cha Almato
vừa đúng 31 tuổi.
Khi xử ba đấng đã có nhiều
dấu lạ như được
kể trong chuyện Đức Cha
Hermosilla. Xác các ngài được
chôn tại chỗ ba tháng rồi
mới được giáo dân lén
lút đem về chôn ở ba nhà khác
nhau tại Thọ Ninh ngày 2-2-1862.
Sau này khi bốc mộ, xác Cha Almato
Bình được đưa về
chôn ở nhà thờ Truyền Tin
thuộc địa phận Vich là
quê quán của ngài ở Tây Ban Nha. |
|
Phêrô
Almato Bình, Linh Mục Ða Minh; sanh 1830
tại Sassera (Vich), Tây Ban Nha; chết
1/11/1861, tại Hải Dương. Ngài
được sai đi Phi Luật Tân
trước hết khi đượïc
khấn dòng Ða Minh. Sau đó được
gửi Ximabara với thánh Jerome Hermosilla,
cùng với vị này, ngài đã bị
xử trảm (chém đầu), phong á
thánh năm1906.
Almatĩ, Pedro
(Phêrô
Almato Bình), Dominican priest; b. 1830 at Sassera
(Vich), Spain; d. 1 Nov. 1, 1861, at Hải Dương,
Tonkin. He was first sent to the Philippines upon
his profession as a Dominican. Thereafter he was sent
to Ximabara under St. Jerome Hermosilla, with whom
he was beheaded. Beatified 1906.
|
001.
Phêrô
Almato Bình
002.
Berrio-Ochoa Vinh
003.
Gioan
Lu-i Bô-na Hương
004.
Phaolô Tống
Viết Bường
005.
Giuse Phạm Trọng
Tả
006.
Ða Minh Cấm
007.
Phanxicô Xaviê Cần
008.
Giuse Hoàng Lương
Cảnh
009.
Catanhêđa, Jacinto Gia
010.
Phanxicô Ðỗ Văn
Chiểu
011.
Gioan Baotixita Cỏn
012.
Jean-Charles Cornay Tân
013.
Stêphanô-Théodore Cuénot Thể
014.
Matthêô Nguyễn Văn
Ðắc (Phượng)
015.
Phêrô Ða
016.
Ðaminh Ðinh Ðạt
017.
Gioan Ðạt
018.
Tôma Nguyễn Văn
Ðệ
019.
Clêmentê Ignaxiô Delgaho Hy
020.
Giuse Maria Diaz Sanjuro An
021.
Antôn Nguyễn Ðích
022.
Vinh Sơn Nguyễn
Thế Ðiểm
023.
Tôma Ðinh Viết Dụ
024.
Bênađô Võ Văn Duệ
025.
Phêrô Dumoulin-Borie Cao
026.
Anrê Trần An Dũng
(Lạc)
027.
Phêrô Ðinh Văn Dũng
028.
Phaolô Vũ Văn Dương
(Ðổng)
029.
Phêrô Trương Văn
Ðường
030.
Vinh-sơn Dương
031.
Giuse Fernandez Hiền
032.
Phanxicô-Isidore Gagelin Kính
033.
Matthêô Lê Văn Gẫm
034.
Melchior Garcia-Sampedro Xuyên
035.
Phanxicô Gil de Fedrich Tế
036.
Ðaminh Nguyễn Văn
Hạnh
037.
Phaolô Hạnh
038.
Ðaminh Henares Minh
039.
Jêrônimô Hermosilla Liêm
040.
Giuse Ðỗ Quang Hiến
041.
Phêrô Nguyễn Văn
Hiếu
042.
Simon
Phan Ðắc Hòa
043.
Gioan Ðoàn Trinh Hoan
044.
Lôrensô Nguyễn Văn
Hưởng
045.
Augustinô Phan Viết
Huy
046.
Ðaminh Huyện
047.
Micae Hồ Ðình Hy
048.
Phanxicô Jaccard Phan
049.
Ðaminh Phạm Trọng
Khảm
050.
Giuse Nguyễn Duy Khang
051.
Phêrô Khanh
052.
Phêrô Võ Ðăng Khoa
053.
Phaolô Phạm Khắc
Khoan
054.
Tôma Khuông
055.
Matthêô Alonzo-Leciniana Ðậu
056.
Vinh-sơn Lê Quang Liêm
057.
Luca Vũ Bá Loan
058.
Phaolô Lê Văn Lộc
059.
Giuse Nguyễn Văn
Lựu
060.
Phêrô Nguyễn Văn
Lựu
061.
Ðaminh Mạo
062.
Ðaminh Mầu
063.
Giuse Marchand Du
064.
Phanxicô Xaviê Hà Trọng
Mậu
065.
Philiphê Phan Văn Minh
066.
Augustinô Nguyễn Văn
Mới
067.
Micae Nguyễn Huy Mỹ
068.
Phaolô Nguyễn Văn
Mỹ
069.
Giacôbê
Ðỗ Mai Năm
070.
Anrê
Nguyễn Kim Thông (Năm Thuông)
071.
Phêrô Phanxicô Néron Bắc
072.
Phaolô Nguyễn Ngân
073.
Giuse Nguyễn Ðình Nghi
074.
Lôrensô Ngôn
075.
Ðaminh Nguyên
076.
Ðaminh Nhi
077.
Ðaminh Ninh
078.
Emanuen Lê Văn Phụng
079.
Phêrô Ðoàn Công Quý
080.
Antôn Nguyễn Hữu
Quỳnh-Nam
081.
Augustine Schoeffler Ðông
082.
Anê Lê Thị Thành (Bà
Ðê)
083.
Gioan Baotixita Ðinh Văn
Thành
084.
Nicôla Bùi Ðức Thể
085.
Giuse Lê Ðăng Thị
086.
Phêrô Trương Văn
Thi
087.
Mactinô Tạ Ðức
Thịnh
088.
Tôma Trần Văn Thiện
089.
Luca Phạm Trọng
Thìn
090.
Máctinô Thọ
091.
Phêrô Thuần
092.
Phaolô Lê Bảo Tịnh
093.
Ðaminh Toái
094.
Tôma Toán
095.
Ðaminh Trạch (Ðoài)
096.
Êmanuen Nguyễn Văn
Triệu
097.
Anrê Trần Văn Trông
098.
Phêrô Vũ Văn Truật
099.
Phanxicô Trần Văn
Trung
100.
Giuse Tuân
101.
Giuse
Tuân
102.
Phêrô Nguyễn Bá Tuần
103.
Giuse Túc
104.
Phêrô Nguyễn Khắc
Tự
105.
Phêrô Nguyễn Văn
Tự
106.
Ðaminh Tước
107.
Anrê Tường
108.
Vinh-Sơn Tường
109.
Phêrô Lê Tùy
110.
Ðaminh Bùi Văn Úy
111.
Giuse Nguyễn Ðình Uyển
112.
Phêrô Ðoàn Văn Vân
113.
Giuse Thêophanô Vénard Ven
114.
Giuse Ðặng Ðình Viên
115.
Stêphanô Nguyễn Văn
Vinh
116.
Ðaminh Nguyễn Văn
Xuyên
117.
Vinh Sơn Ðỗ Yến
|